là một trong số các tập đoàn thực hiện thí điểm hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh tế.
Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam Nguyễn Ngọc Sự
Ngành
đóng tàu là một ngành công nghiệp chế tạo, công nghiệp nặng, đòi hỏi có
công nghệ cao và đầu tư lớn. Hơn nữa đây là một lĩnh vực công nghiệp
nặng tiêu thụ sản phẩm của các ngành công nghiệp nặng khác như: Thép,
chế tạo máy, hóa chất, điện, điện tử v.v.... và làm vai trò hậu cần cho
các ngành kinh tế như: Hàng hải, dầu khí, thủy sản và an ninh quốc
phòng.
Trong
những năm qua, ngành đóng tàu thế giới đã có những bước chuyển dịch từ
Châu Âu - Mỹ sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… Việt Nam
là một quốc gia biển, có bờ biển dài hàng ngàn km dọc đất nước, rất
thuận lợi và phù hợp với việc phát triển ngành công nghiệp đóng tàu. Bởi
vậy, cùng với sự chuyển dịch ngành công nghiệp đóng tầu, đồng thời nhằm
mục đích xây dựng một ngành đóng tầu Việt Nam từng bước trở thành một
trong số ít các quốc gia có ngành này phát triển mạnh trên thế giới và
khu vực, năm 1996 Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam đã được
thành lập, và đến năm 2006 thành lập Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt
Nam (đây là một trong những đề án thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế)
và khi đó Việt Nam đã được thế giới nhắc đến như là một điểm chuyển dịch
mới của ngành đóng tàu thế giới.
Quá
trình hình thành, phát triển của Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam
đã có những thời kỳ, những lúc ghi được dấu ấn trong sự phát triển của
ngành đóng tàu Việt Nam cũng như của thế giới, đã tạo được niềm tin đối
với các đối tác trong và ngoài nước, tổng giá trị các đơn đặt hàng đã có
lúc lên tới 11 tỷ USD.
Công trường Tổng công ty Nam Triệu nhìn từ trên kho nổi FSO5
Trước năm 2000 Việt Nam
hầu như không đóng được tàu biển viễn dương. Sau khi thực hiện thành
công sản phẩm cơ khí trọng điểm quốc gia - Tàu hàng 12.500DWT đi vòng
quanh thế giới (6/01/2004) ghi dấu ấn cho giai đoạn phát triển mới của
ngành đóng tàu Việt Nam.
Tiếp đó đóng và giao hàng loạt tàu 53.000DWT; 34.000 DWT; 22.500DWT cho
các chủ tàu nước ngoài, các chủ tàu trong nước bắt đầu tin tưởng vào
ngành đóng mới tàu biển Việt Nam.
Tính
đến nay, Vinashin đã đóng và bàn giao cho các chủ tàu nước ngoài 27 tàu
hàng các loại với 736.000 tấn tàu; 32 tàu kéo; 04 tàu dầu, tàu chở hóa
chất; 02 tàu chở ôtô 4.900 xe. Đồng thời bàn giao cho các chủ tàu trong
nước 18 tàu hàng vận tải biển với 343.000 tấn tàu; 01 kho chứa dầu nổi
150.000T-FS05; và hàng trăm tàu hàng 1.000T đến 5.000T, tàu công trình,
tàu kéo, tàu sông các loại.
Vinashin
đã bước đầu làm chủ được thiết kế kỹ thuật các loại tàu hàng đến 5 vạn
tấn; thiết kế công nghệ và thi công các loại tàu đặc chủng; chất lượng
đóng tàu đảm bảo các yêu cầu khắt khe của đăng kiểm nước ngoài và đã
được kiểm chứng từ những con tàu đã được vận hành ở nước ngoài cũng như
trong nước.
Lãnh đạo Tập đoàn và Tcty Bạch Đằng chụp ảnh lưu niệm cùng chủ tàu và các chuyên gia trong ngày hạ thủy tàu chở xi măng
Vinashin
đã chủ động, tiên phong triển khai các dự án chế tạo thép tấm, động cơ
diezel, cần cẩu, máy bơm, que hàn, sơn tàu thủy, cáp điện tàu thủy… và
kêu gọi các ngành tham gia phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành đóng tàu.
Đến nay về cơ bản Việt Nam đã chủ động được que hàn, sơn tàu biển, cần cẩu cho nhà máy đóng tàu…
Khủng
hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới những năm qua đã ảnh hưởng
rất lớn đến nền kinh tế thế giới, hoạt động vận tải đặc biệt là vận tải
đường biển gặp rất nhiều khó khăn dẫn đến thua lỗ nghiêm trọng do giá
cước vận tải trên thị trường xuống rất thấp đồng thời kéo theo ngành
đóng tàu trên toàn thế giới bị ảnh hưởng sâu sắc, Vinashin cũng không
tránh được sự ảnh hưởng đó cộng với sự quản lý tổ chức điều hành sản
xuất kinh doanh của Tập đoàn yếu kém, khó khăn lớn về tài chính, thi
công đóng tầu luôn luôn bị chậm tiến độ, chi phí, giá thành tăng cao nên
nhiều hợp đồng đóng tàu đã ký bị hủy, hợp đồng được ký mới rất ít, tình
trạng SXKD bị đình trệ, công nhân thiếu việc làm, nợ lương, không trả
được lương hoặc trả rất thấp thường xuyên xảy ra. Rủi ro phải gánh chịu
khi hủy hợp đồng do chậm tiến độ giao tàu càng làm nặng thêm gánh nặng
tài chính của Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam.
Hiện nay, Tập đoàn đang trong giai đoạn vô cùng khó khăn do hậu quả của
tình hình khủng hoảng tài chính thế giới và sự yếu kém của hoạt động
quản lý điều hành kể cả vĩ mô và vi mô đối với Tập đoàn đang trong trạng
thái bấp bênh bên bờ vực phá sản. Qua nghiên cứu tình hình thực tế của
Tập đoàn trong những năm qua có thể rút ra một số nguyên nhân như sau:
-
Định hướng Chiến lược phát triển của Tập đoàn thời gian qua chưa phù
hợp với khả năng và nhu cầu phát triển thực sự của Tập đoàn.
-
Thiếu các văn bản pháp qui về quản lý và điều hành tập đoàn đặc biệt là
Điều lệ Tổ chức hoạt động, Qui chế tài chính và các qui chế nội bộ
khác.
-
Qui hoạch đầu tư phát triển chưa tập trung vào lĩnh vực SXKD chính của
Tập đoàn, đầu tư dàn trải, thời gian đầu tư kéo quá dài, quyết định đầu
tư không phù hợp, không lập đầy đủ luận chứng kinh tế kỹ thuật xác định
hiệu quả dự án, hoặc làm lấy lệ mà không đúng thực chất của dự án, một
số dự án không làm đầy đủ các thủ tục pháp lý theo qui định.
-
Việc phát triển Tập đoàn tràn lan ra nhiều lĩnh vực không thuộc lĩnh
vực SXKD của Tập đoàn với tốc độ quá nhanh và quá nhiều trong khi đó khả
năng về tài chính có hạn và công tác qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và
bố trí cán bộ chưa tốt. Có những cán bộ chủ chốt được phân công đảm
nhiệm quá nhiều vị trí quan trọng (Chủ tịch, Tổng Giám đốc các đơn vị
thành viên).
-
Việc huy động và quản lý sử dụng vốn không tuân thủ các qui định về
quản lý tài chính hiện hành. Việc huy động vốn từ các nguồn trong và
ngoài nước quá dễ dàng, bỏ qua một số thủ tục theo quy định. Quản lý sử
dụng vốn lỏng lẻo, sử dụng vốn sai mục đích, đầu tư vốn dàn trải, không
có báo cáo đầu tư đầy đủ đúng qui định, tổ chức quản lý vốn đầu tư kém
hiệu quả, công tác kiểm tra kiểm soát chưa được coi trọng, hoạt động kém
hiệu quả.
-
Quản lý tổ chức SXKD chưa hợp lý, thiếu khoa học, mối liên hệ giữa Tập
đoàn với các đơn vị và giữa các đơn vị với nhau lỏng lẻo, không có sự
hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau, các nguồn lực nơi thừa, nơi thiếu không có
sự điều hành, điều phối của Tập đoàn, dẫn đến lãng phí và kém hiệu quả.
-
Công tác đổi mới và cổ phần hoá doanh nghiệp thực hiện không đúng với
các qui định về cổ phần hoá DNNN của Chính phủ dẫn đến không đạt được
mục tiêu của CPH là đa dạng hoá sở hữu và huy động vốn từ bên ngoài.
Công ty CP có đăng ký vốn điều lệ nhưng lại không có vốn thực sự vì phần
lớn số vốn đó được góp bằng giá trị thương hiệu.
-
Sự chỉ đạo và công tác kiểm tra giám sát của các cơ quan quản lý Nhà
nước liên quan còn chưa thường xuyên và chưa sát với Tập đoàn, có lúc,
có nơi còn buông lỏng quản lý, không kịp thời chấn chỉnh các sai lệch
trong quản lý điều hành của Tập đoàn, dẫn đến việc sai phạm đi quá xa
không được khắc phục kịp thời.
Một số bài học kinh nghiệm và kiến nghị.
1.
Việc thực hiện thành lập và thí điểm một số doanh nghiệp hoạt động theo
mô hình tập đoàn kinh tế làm vai trò trụ cột cho nền kinh tế là một chủ
trương hoàn toàn đúng đắn của Đảng và Chính phủ. Vì vậy để doanh nghiệp
có thể phát triển đúng hướng làm tròn vai trò của mình thì có rất nhiều
việc cần phải làm và điều chỉnh một cách phù hợp.
2.
Chính phủ cần có những chỉ đạo doanh nghiệp xây dựng định hướng chiến
lược phát triển của mình phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế đất
nước, phù hợp với lĩnh vực hoạt động, khả năng và yêu cầu phát triển của
doanh nghiệp. Không đầu tư dàn trải ra các lĩnh vực không thuộc lĩnh
vực SXKD chính của doanh nghiệp.
3.
Việc quản lý điều hành (kể cả vĩ mô và vi mô) cần phải phân định rõ vai
trò và trách nhiệm của hệ thống quản lý điều hành từ các cơ quan của
Chính phủ, các Bộ ngành trung ương, địa phương đến doanh nghiệp, đặc
biệt phải có đầy đủ một hệ thống các văn bản pháp qui phù hợp với từng
lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp và đáp ứng yêu cầu quản lý của các
cơ quan nhà nước.
4.
Nhà nước cần ban hành các cơ chế chính sách ưu đãi kể cả ưu đãi về vốn
và huy động vốn cho các doanh nghiệp, có các chính sách đặc thù phù hợp
với từng lĩnh vực, ngành nghề sản xuất. Nới rộng quyền hạn và trách
nhiệm cho Tập đoàn đặc biệt là quyền và trách nhiệm của Hội đồng thành
viên, đồng thời tăng cường công tác quản lý kiểm tra, giám sát, chấn
chỉnh kịp thời các sai lệch trong quản lý điều hành của doanh nghiệp.
5.
Doanh nghiệp cần phải xây dựng Chiến lược phát triển phù hợp, tập trung
vào các lĩnh vực SXKD chính, ngành nghề, sản phẩm là thế mạnh của doanh
nghiệp, không đầu tư dàn trải, đầu tư ra ngoài lĩnh vực kinh doanh của
mình. Xây dựng kế hoạch và ưu tiên cấp đủ vốn cho việc đầu tư các dự án
trọng điểm gắn với hoạt động SXKD chính của doanh nghiệp, đảm bảo đầy đủ
về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho nhiệm vụ SXKD chính của mình.
6.
Thực hiện tốt việc quản lý, tổ chức SXKD khoa học, hợp lý và hiệu quả,
tăng cường vai trò quản lý điều phối của Công ty mẹ đối với hoạt động
SXKD của các công ty thành viên, đẩy mạnh, củng cố và tổ chức tốt việc
quản trị doanh nghiệp và quản trị tài chính, thực hành tiết kiệm chống
lãng phí.
7.
Làm tốt công tác quản lý, qui hoạch, luân chuyển, đào tạo phát triển
nguồn nhân lực đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý điều hành doanh
nghiệp. Thường xuyên thực hiện việc đánh giá năng lực cán bộ, trên cơ sở đó đào tạo bồi dưỡng và bố trí cán bộ phù hợp với năng lực cán bộ.
8.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức
tốt sự phối kết hợp giữa tổ chức Đảng, Ban điều hành, tổ chức Công đoàn,
Đoàn thanh niên CS Hồ Chí Minh, thường xuyên phát động, tổ chức thực
hiện và tổng kết các phong trào thi đua nhằm thực hiện tốt kế hoạch công
tác đã đề ra.
Nguyễn Ngọc Sự
Chủ tịch Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam - Nguồn: Tạp chí Vinashin