Như
vậy so với đường sông trước đây chỉ quản lý khai thác vận tải trên các
con sông có chiều dài >10km thì khái niệm thuỷ nội địa đã được mở
rộng. Ngành Đường thuỷ nội địa đã quản lý, khai thác tới 2.360 con sông
lớn nhỏ với chiều dài tổng cộng 40.000km chưa kể diện tích các hồ chứa
nước lớn như Hoà Bình, Thác Bà, Trị An, Dầu Tiếng…, các vùng châu thổ
sông Hồng, Thái Bình, đồng bằng sông Cửu Long có mật độ 0,17-0,19km/km2
thuộc loại mật độ sông cao nhất thế giới, cùng với 3.260km đường bờ biển
và đường ra đảo nối liền khoảng 4.000 đảo lớn nhỏ.
Với mạng lưới sông ngòi chằng chịt đã tạo nên hệ thống vận tải thuỷ đa dạng. Theo con số thống kê của Cục Đường sông Việt Nam,
riêng năm 2010 khối lượng vận tải hàng hoá bằng đường thuỷ nội địa đạt
trên 55 triệu tấn hàng hóa. Nhưng con số đó chưa thống kê đủ vì vận tải
sông gồm rất nhiều thành phần tham gia, rất nhiều phương tiện, chỉ có
thể lấy số liệu báo cáo của các công ty có sổ theo dõi còn các mảng
phương tiện gia dụng của tư nhân như thuyền, bè nứa, thuyền gỗ… làm sao
có thể thống kê nổi. Hàng năm đường sông đảm nhận hơn 30% khối lượng
luân chuyển (T.km), tỷ lệ vận chuyển hành khách đạt 13,25%. Riêng ở đồng
bằng sông Cửu Long, vận tải thuỷ đảm nhận khoảng 60-70% lượng hàng hoá
khu vực. Đồng bằng sông Hồng, nơi có nhiều loại phương tiện giao thông
khác nhau cũng đảm nhận tới 28% tổng khối lượng hàng hoá vận chuyển do
ưu thế về giá cước vận tải thấp hơn nhiều so với các hình thức vận tải
khác.
Do
sự phân bố dân cư và các ngành công nghiệp, nông nghiệp, hoạt động vận
tải thuỷ nội địa tập trung ở hai vùng đồng bằng Bắc bộ và Nam bộ. Hàng hoá vận chuyển chính là than đá, cát, vôi, vật liệu xây dựng, xi măng, phân bón. Phía Nam chủ yếu là vận chuyển hàng bách hoá và nông sản thực phẩm.
Vùng
biển và thềm lục địa nước ta rộng gấp ba lần diện tích đất liền. Tiềm
năng phong phú về tài nguyên biển là điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo đường lối đổi mới. Để khai thác tiềm
năng của biển và bảo vệ vững chắc vùng biển, đảm bảo an ninh quốc phòng
là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đòi hỏi các ngành, trong đó đặc biệt
thường xuyên sử dụng, khai thác mặt nước cần có những đổi mới căn bản về
nội lực, trang thiết bị hiện đại, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật,
công nghệ theo một thể thống nhất nhằm đầu tư phương tiện thuỷ, đóng mới
và sửa chữa các loại phương tiện thuỷ theo một mô hình phù hợp với từng
địa phương, phù hợp với từng vùng kinh tế, phục vụ đắc lực cho việc
phát triển kinh tế xã hội nước ta trong những thập niên đầu của thế kỷ
XXI, vừa thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, vừa đẩy
mạnh nhịp độ lưu thông hàng hoá, hành khách vốn đã được phát huy do ưu
thế đặc biệt của thuỷ nội địa được thiên nhiên ban tặng.
Theo
định hướng chiến lược phát triển giao thông vận tải trong giai đoạn
mới, việc tổ chức các phương tiện vận tải được ưu tiên số một. Đối với
vận tải thuỷ, được xác định: “Đường thuỷ nội địa có vai trò phục vụ cho
công nghiệp điện, vận chuyển than cho các nhà máy, vận chuyển hàng rời,
hàng container, lash đến các vùng sâu, vùng xa. Vận tải hàng nội và liên
vùng thay thế vận chuyển bằng đường bộ hoặc cùng vận tải đường bộ làm
các nhiệm vụ vận tải nội vùng…”. Như vậy, ngoài những định hướng truyền
thống, vận tải thuỷ nội địa đã và đang phát triển những loại hình sau:
-
Vận tải hàng xuất nhập khẩu, đặc biệt là việc tiếp nhận vận chuyển
container như một khâu quan trọng trong dây chuyền vận tải đa phương
thức bao gồm việc rút hàng từ các cảng nội địa ra tàu biển, cảng biển,
lấy hàng từ tàu biển vào các cảng nội địa.
- Vận tải hàng hoá Bắc – Nam
cực kỳ quan trọng do sự ra đời của một loạt các khu công nghiệp, cụm
công nghiệp có nhu cầu lưu thông hàng hoá cao mà đường thuỷ nội địa có
những thế mạnh hơn hẳn các phương thức vận tải khác.
-
Vận tải khu vực hồ, đặc biệt là hồ Hoà Bình với chiều dài 193km phục vụ
cho công trình thuỷ điện Sơn La và sau khi công trình này hoàn thành,
chiều dài vận chuyển sẽ gần 300km đáp ứng cơ bản cho phát triển kinh tế,
xã hội của các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình.
- Vận tải từ bờ ra các đảo và giữa các đảo, đặc biệt là các đảo có dân hoặc có kế hoạch di dân ra đảo sinh sống.
- Vận tải liên vận sang Trung Quốc, Campuchia, Lào sẽ tạo cầu nối cho việc phát triển hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và các nước.
Để
đáp ứng được các nhiệm vụ của thuỷ nội địa trong giai đoạn mới, một
trong những yếu tố quyết định cho sự thành công của vận tải thuỷ nội địa
là phải chú trọng đến việc phát triển đội tàu và nghiên cứu mẫu tàu phù
hợp với từng loại hình vận tải. Không ai khác hơn, Tập đòan Công
nghiệp tàu thủy Việt Nam với bề dày kinh nghiệm và năng lực sẵn có về
cơ sở đóng mới, sửa chữa các loại tàu hàng, tàu khách, tàu chuyên dùng
sẽ đóng vai trò chủ lực cùng với các cơ sở đóng, sửa chữa phương tiện
thuỷ của ngành Đường sông Việt Nam hy vọng sẽ góp cho ngành Vận tải thuỷ
nội địa những phương tiện cần thiết đủ tiêu chuẩn chất lượng để thực
hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chuẩn bị cho ngành
hoà nhập với khu vực Đông Nam á và thế giới trong những thập kỷ đầu
tiên của thế kỷ XXI, đáp ứng được nhu cầu vận tải thuỷ theo dự báo của
Viện Kinh tế chiến lược quốc gia.
Trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020, và với mục tiêu tăng
trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 7-7,5%/năm sẽ tất yếu đòi hỏi sự tăng
trưởng nhu cầu vận chuyển hàng hoá bằng đường thuỷ nội địa. Dự báo nhu
cầu vận tải nội địa như vậy đội tàu vận tải cũng phải được phát triển
tương xứng. Dự báo nhu cầu đóng mới bổ sung, nhu cầu sửa chữa phương
tiện thủy trong từng thời kỳ như sau:
Hiện
nay công nghệ đóng tàu trong nước đã chế tạo được các loại tàu có chất
lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế như tàu chở hàng 6.500 đến 12.000 DWT, các
loại tàu cao tốc 30 hải lý/h là loại tàu có thể phục vụ vận tải sông -
biển. Tập đoàn cũng đang triển
khai đóng các loại tàu chở dầu 13.000 DWT – 70.000 DWT và các loại tàu
chở dầu thô cỡ Aframax 100.000 DWT. Công ty liên doanh Hyundai –
Vinashin là Nhà máy sửa chữa tàu biển lớn nhất khu vực Đông Nam á trong
thời gian qua đã sửa chữa rất nhiều chủng loại tàu quốc tế với doanh thu
khoảng 70 triệu USD/năm. Có thể nói công nghiệp đóng tàu lớn phục vụ
vận tải đường dài trên biển của Việt Nam đang từng bước khẳng định vị thế của mình đối với thị trường trong nước và quốc tế.
Phục
vụ thị trường trong nước, các nhà máy của Tập đoàn Vinashin đã đóng mới
và có kế hoạch đóng mới tàu chở dầu và tàu chở khí hoá lỏng LPG có công
suất từ 3.000 đến 30.000 DWT cho Công ty Vận tải dầu khí thuộc Tổng
Công ty xăng dầu Việt Nam; các loại tàu chở dầu thô cỡ 100.000 DWT; các
loại tàu chở xi măng cỡ 10.000 đến 25.000 DWT cho Tổng Công ty xi măng
Việt Nam; các loại tàu chở quặng 5.000 – 20.000 DWT cho Tổng Công ty
than Việt Nam; các loại tàu chở hàng tải trọng 5.000 – 30.000 DWT cho
Tổng Công ty hàng hải, Tổng Công ty vận tải biển; các loại tàu hút bùn
có công suất 1.000 – 5.000 m3/h cho các công ty công trình thủy… Ngoài
ra còn có kế hoạch đóng các loại tàu đánh bắt và chế biến hải sản, các
loại tàu chở khách cao tốc, các loại tàu tuần tra cao tốc phục vụ cho
các ngành kinh tế và bảo vệ an ninh quốc phòng.
Như vậy vấn đề đặt ra: Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam sẽ có kế hoạch như thế nào trong việc chuyên môn hóa, hiện đại hóa các phương tiện vận tải sông?
Chủng loại tàu |
2001 - 2010 |
2011 - 2020 |
Đóng mới (chiếc) |
Sửa chữa
(lượt chiều) |
Đóng mới (chiếc) |
Sửa chữa (lượt chiều) |
Tàu biển từ 1.00 – 100.000 DWT |
270 |
2.548 |
535 |
4.025 |
Phương tiện vận tải thủy nội địa |
2.400 |
13.107 |
4.000 |
32.000 |
Tàu Công trình (tàu nạo vét, cần trục nổi, tàu dịch vụ dầu khí...) |
410 |
4.380 |
645 |
10.280 |
Tàu khách, tàu du lịch > 100 chỗ |
876 |
7.500 |
1.180 |
17.500 |
Tàu đánh bắt hải sản > 100 CV |
1.500 |
2.050 |
2.000 |
5.275 |
Theo
định hướng chiến lược giao thông vận tải đến năm 2020, Đường sông Việt
Nam được giao nhiệm vụ nâng cấp hầu hết các tuyến đường thủy chính một
cách đồng bộ cả phía Bắc và phía Nam trong đó tuyến Quảng Ninh - Phả Lại
– Hà Nội - Việt Trì và tuyến Quảng Ninh – Hà Nội – Ninh Bình cho các
đoàn tàu có trọng tải tới 1.600 tấn; tuyến sông biển từ Lạch Giang đến
Hà Nội và cửa Đáy đến Ninh Bình cho tàu 1.000 tấn; tuyến Việt Trì –
Tuyên Quang – Hoà Bình cho tàu 200 tấn. ở phía Nam tuyến thành phố Hồ
Chí Minh – Kiên Lương, thành phố Hồ Chí Minh – Cà Mau cho tàu tự hành
300, 1.000 và 1.200 DWT. Cùng với việc mở rộng, nâng cấp tuyến luồng, hệ
thống cảng mà đặc biệt là các cảng chuyên dùng để bốc dỡ hàng
container, cảng khách khang trang để phát triển vận tải hành khách phục
vụ du lịch trên sông và các nhu cầu khác là một trong những yêu cầu mở
để Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam có thể nghiên cứu tìm ra các
giải pháp để đáp ứng các yêu cầu cụ thể. Qua thống kê cho thấy khối
lượng vận tải ven biển tăng nhanh hơn vận tải sông và đồng bằng sông Cửu
Long có tốc độ tăng nhanh hơn đồng bằng sông Hồng. Số T.km cho châu thổ
sông Hồng là 1,7 tỷ, và sông Cửu Long là 1,8 tỷ. Vận tải ven biển tăng
bình quân hàng năm 8% trong khi vận tải sông chỉ tăng 4,7%.
Về
đội tàu, ngoài các yếu tố điều hành khai thác, để nâng cao năng suất
của phương tiện cần tập trung giải quyết tốc độ chạy tàu đạt 12-18km/giờ
đối với đoàn tàu kéo; 20-30km/h với tàu tự hành và 35-45km/h đối với
tàu khách thường và 45-60km/h với tàu khách nhanh. Để làm được như vậy
cần có sự điều hành, quản lý đồng bộ giữa khâu bảo vệ, nâng cấp luồng,
hệ thống phao tiêu, báo hiệu, và mẫu tàu cho từng chủng loại phương tiện
để đảm bảo an toàn chạy tàu. Về phía phương tiện, cần phải định hình
hoá, phân loại theo nhu cầu các nhóm, đặc biệt chú ý đến:
-
Đội tàu vận tải container nội địa với loại tàu trọng tải 250-400 tấn
chở được 20-30 container loại 20 feet hoặc 10 container loại 40 feet.
khoảng 30.000 tấn đăng ký.
-
Đội tàu vận tải lash nội địa, trọng tải 3.000-5.000 tấn chuyên chở loại
sà lan 100-200 tấn, chủ yếu chạy Bắc-Nam khoảng 15.000 tấn đăng ký.
-
Đội tàu vận tải hành khách bao gồm: Tàu khách chạy thông thường, tàu
khách nhanh, tàu khách tốc hành, tàu du lịch hoạt động trên các tuyến
Quảng Ninh - Hải Phòng – Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh – Vũng Tàu – Năm
Căn - Cần Thơ.
Về
cơ sở vật chất ngoài các đơn vị lớn như Bạch Đằng, Hạ Long, Bến Kiền,
Phà Rừng, Nam Triệu…ở phía Bắc, Công ty Đóng tàu Cam Ranh ở miền Trung.
Công ty Công nghiệp tàu thủy Sài Gòn, Saigon ShipMarin… ở phía Nam chuyên đóng mới và sửa chữa tàu biển vẫn có thể đảm nhận phần lớn các phương tiện thủy theo yêu cầu của vận tải thủy nội địa.
Vận
tải thuỷ nội địa thế kỷ XXI đang có lợi thế rất lớn về nhiều mặt trong
đó đặc biệt quan trọng là vốn đầu tư hạ tầng cơ sở ít, năng lực chuyên
chở lớn và đương nhiên giá thành vận tải sẽ thấp nhất so với các loại
hình vận tải khác. Tuy nhiên, để vận hành tốt phương thức vận tải này,
Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải và lãnh đạo các Ban, Ngành từng địa
phương nơi có các dòng sông chảy qua cần có các giải pháp đồng bộ để
quản lý, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú này một cách
hiệu quả để phục vụ cho công cuộc đổi mới giao thông vận tải Việt Nam
giai đoạn 2000 -2020.
Với
năng lực hiện có của mình, Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam sẽ cố
gắng đóng góp tốt nhất về mặt cung cấp đóng mới, sửa chữa phương tiện
vận tải thủy để tiến tới tô màu cho bức tranh toàn cảnh về giao thông
vận tải Việt Nam./.
Th.S Vũ Hữu Hùng - Tạp chí Vinashin